May Sông Hồng có nguy cơ mất 166 tỷ khi khách hàng lớn nhất tại Mỹ nộp đơn phá sản?

Washington Post đưa tin RTW Retailwinds, công ty sở hữu gần 400 cửa hàng New York&Co tại 32 bang trên khắp nước Mỹ, vừa nộp đơn xin phá sản vào thứ Hai vừa qua, và có thể hãng này sẽ đóng cửa gần hết, thậm chí là tất cả các cửa hàng.

RTW Retailwinds là hãng bán lẻ quần áo có tuổi đời 102 năm, ra đời năm 1918, sở hữu các thương hiệu như New York & Co., Fashion to Figure, một dòng sản phẩm Happy x Nature của Kate Hudson.

Các nhà bán lẻ thời trang như RTW Retailwinds đã bị đẩy đến bờ vực trước khi đại dịch Covid-19 bùng nổ làm gia tăng các đơn đặt hàng tại nhà khiến doanh số sụt giảm. Năm 2019, RTW cho biết doanh thu giảm hơn 7%, còn 827 triệu USD và ghi nhận lỗ ròng 61,6 triệu USD so với con số lãi 4,2 triệu USD vào năm 2018.

Vào tháng Ba, khi dịch bệnh bùng phát, giống như các nhà bán lẻ khác, RTW thông báo kế hoạch đóng tạm thời các cửa hàng và cho công nhân tạm nghỉ. “Môi trường bán lẻ đầy thách thức cộng với tác động của đại dịch Coronavirus đã gây ra khủng hoảng tài chính cho hoạt động kinh doanh của chúng tôi”, Sheamus Toal, giám đốc điều hành của RTW viết trong thông cáo. Sở giao dịch chứng khoán New York cũng đã đình chỉ giao dịch cổ phiếu phổ thông của công ty này vào cuối tuần trước.

Trong hồ sơ, RTW liệt kê tài sản 412 triệu USD và các khoản nợ khoảng 396 triệu USD. Công ty con của RTW là The New York City cho biết các cửa hàng vẫn tiếp tục hoạt động trong quá trình làm thủ tục phá sản, 90% các cửa hàng New York &Co đã mở cửa trở lại sau khi lệnh dừng hoạt động được dỡ bỏ nhưng tương lai của các cửa hàng này là không chắc chắn.

Ở một góc khác, The New York & Co là đối tác lớn nhất của CTCP May Sông Hồng (mã MSH đang giao dịch trên sàn HoSE). Báo cáo cập nhật mới nhất vào 31/3/2020 của MSH cho thấy công ty đang có khoản phải thu khách hàng 439 tỷ trong đó khoản phải thu của New York & Co là 166 tỷ (chiếm 37,8% khoản phải thu khách hàng và chiếm 6,7% tổng tài sản của May Sông Hồng).

Phải thu khách hàng của May Sông Hồng (nguồn BCTC quý 1/2020)

Theo số liệu trong Bản cáo bạch, New York & Co là một trong 3 khách hàng truyền thống lớn của May Sông Hồng những năm gần đây – chiếm 25% tổng doanh thu của mảng FOB (mảng kinh doanh chiếm khoảng 70% tổng doanh thu của công ty) – lớn nhất trong số các khách hàng chính.

Năm 2020, May Sông Hồng đặt kế hoạch 3.200 tỷ đồng doanh thu (giảm 27% so với năm 2019), lợi nhuận trước thuế 250 tỷ đồng, tỷ lệ cổ tức 25-35% (năm 2019 tỷ lệ cổ tức là 45% bằng tiền mặt). Công ty cho biết hiện đứng thứ 2 trong số các công ty dệt may trong nước và đứng thứ 6-7 trong số các công ty dệt may bao gồm cả FDI.

KQKD của May Sông Hồng trước khi có Covid-19

Cơ cấu cổ đông của MSH, FPTS hiện nắm gần 13%

Trước tác động của dịch bệnh, ban lãnh đạo công ty cho biết hàng hóa tồn đọng tại nhà máy nhiều (tính đến 31/3 hàng tồn kho 732 tỷ, chiếm 24,5% tổng tài sản), công ty xuất khẩu khẩu trang y tế (khoảng 30 triệu sản phẩm), đồ bảo hộ y tế (10 triệu sản phẩm). Tuy nhiên đây chỉ là giải pháp tình thế vì nhu cầu không kéo dài và phía Trung Quốc liên tục tăng giá nguyên phụ liệu và thiết bị. Công ty cũng phải điều chỉnh các dự án đầu tư như nhà máy SH10 đã san lấp xong nhưng cho dừng lại.

KQKD quý I/2020 của MSH

Trao đổi với Trí Thức Trẻ, một nguồn tin của May Sông Hồng cho biết New York & Co là khách hàng lâu năm của MSH. Covid là trường hợp bất khả kháng nên khó tránh khỏi, khi dịch bùng phát tại thị trường Mỹ, MSH đã dự báo trước tình hình này sẽ xảy ra và đã trích lập dự phòng một phần từ quý 1 và sẽ tiếp tục trích lập vào các tháng tiếp theo. Về khả năng có thể thu hồi được bao nhiêu trong khoản phải thu 166 tỷ với khách hàng NY&Co, lãnh đạo MSH cũng đã liên hệ nhưng chưa có kết quả.

Đánh giá về sự việc NY&Co phá sản, đại diện MSH cho biết với nguồn tài chính hiện tại của MSH thì ảnh hưởng chưa nhiều, hiện nay công ty đang duy trì bằng việc xuất khẩu khẩu trang và đồ bảo hộ lao động, nên người lao động vẫn có việc làm, nhưng nếu Covid kéo dài thì “không biết được”.

MSH cho biết, công ty hạch toán giá thành, chi phí từng khách hàng và mã hàng. Nếu trong 1 năm đánh giá nguồn lợi nhuận từ khách hàng đó không ổn sẽ tìm kiếm các khách hàng tốt hơn, luôn luôn cập nhật khách hàng mới để nhà máy duy trì hoạt động bình thường và không để máy móc bị trống và người lao động bị nghỉ. Nguồn tin cho biết Công ty bị huỷ 20-25% đơn hàng trong đợt Covid, “khách hàng nói tạm thời chưa xuất hàng”, “đơn hàng mới đủ sản xuất đến tháng 11, tiếp theo thì vẫn đang đi khai thác”. MSH hiện đang tìm kiếm khách hàng tại thị trường Hàn Quốc.

Vào năm 2018, CTCP Dệt May – Đầu tư – Thương mại Thành Công (TCM) cũng gặp trường hợp tương tự khi khách hàng lớn tại Mỹ là Tập đoàn bán lẻ Sears Holdings đã đệ đơn xin bảo hộ phá sản theo Chương 11 Luật Phá Sản Mỹ. Cùng với việc xin bảo hộ phá sản của Sears là 49 công ty con bao gồm hai công ty là Sears, Roebuck and Co. và Kmart Corporation đang có giao dịch mua hàng với TCM, đóng góp khoảng 7% doanh thu của công ty. TCM có các khoản phải thu trị giá 100 tỷ đồng với các công ty này.

Đến cuối năm 2019, TCM trích lập dự phòng phải thu 84 tỷ trên tổng giá trị các khoản phải thu 101 tỷ đồng với Sears và Kmart

Việc các công ty làm thủ tục phá sản không hẳn sẽ khiến các đối tác như TCM hay May Sông Hồng bị mất trắng, tuy việc việc đòi lại được tiền và đòi được bao nhiêu phần trăm phụ thuộc vào quá trình tái cấu trúc của doanh nghiệp ở nước sở tại.

Covid-19 đã ảnh hưởng mạnh đến các thị trường xuất khẩu lớn của dệt may Việt Nam như Mỹ và Châu Âu, khiến hàng loạt các đơn hàng bị hoãn, huỷ. 6 tháng đầu năm, xuất khẩu xơ, sợi dệt các loại giảm 21,2% (cùng kỳ tăng 1,9%); vải mành, vải kỹ thuật giảm 39,6% (cùng kỳ tăng 17,1%); hàng dệt và may mặc giảm 15,5% (cùng kỳ tăng 10,4%).

Nguồn: CafeF (https://cafef.vn/)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *